Lai giống Bò Hà Lan

Nhiều nước ở vùng nóng đã nhập bò Hà Lan về để lai tạo với bò địa phương hoặc nhân thuần nhằm mục đích sản xuất sữa. Tuy nhiên, khi chuyển bò sữa ôn đới cao sản HF vào nuôi ở môi trường nóng thường cho kết quả thấp hơn vì Bò sữa HF cũng như các gia súc khác, chúng thích nghi một cách chậm chạp với môi trường mới do đó khi chuyển đột ngột chúng vào một môi trường quá khác biệt sẽ tạo ra sự căng thẳng quá lớn để chúng có thể thích nghi. Những con bò Hà Lan mới nhập về vùng nhiệt đới gặp thời tiết nóng làm cho khả năng đề kháng bệnh tật thấp, vì vậy bò dễ bị bệnh.[4]

Bên cạnh đó, trong môi trường ẩm độ cao các loại côn trùng như ruồi, muỗi, ve rất nhiều, chúng không chỉ tấn công gây tổn hại trực tiếp đến sức khỏe của bò mà còn là trung gian truyền bệnh ký sinh trùng đường máu rất nguy hiểm. Ở những nơi mà thức ăn xanh cung cấp cho bò là cỏ cắt nơi đồng trũng, ven kênh rạch thì có nguy cơ cỏ này mang mầm bệnh như sán lá gan và ký sinh trùng đường ruột khác. Mặt khác, có sự thiếu kinh nghiệm trong chăn nuôi bò sữa Hà Lan cao sản ở hầu hết các chủ trại. Có nhiều chủ trại lần đầu tiên nuôi bò, không biết phát hiện bò lên giống, phát hiện viêm vú, không biết thế nào là căng thẳng nhiệt ở bò sữa từ đó đã làm tăng thêm hậu quả căng thẳng ở bò HF khi chuyển vùng.[4]

Thông thường nhiều nước sử dụng lai cấp tiến giữa bò HF với bò địa phương để tạo ra con lai tỷ lệ cao máu bò HF hoặc nuôi HF thuần. Một số tổ hợp lai giống của bò Hà Lan trên thế giới là:

  • Giống AFS là giống kháng ve, tạo ra từ bò đực Sahiwal và bò cái Friesian. Giống được thực hiện bằng lai giữa bò cái Friesian và bò đực Sahiwal. Những con bò lai F1 cho phối với nhau để tạo ra đàn hạt nhân AFS chứa 50% máu Friesian và 50% máu Sahiwal. Đàn quốc gia này được dùng để tạo bò đực cho kiểm tra đời con và bò cái cho đàn sản xuất sữa. Chỉ những con cái tốt nhất được giữ lại cho đàn hạt nhân, dựa trên năng suất sữa và kháng ve. Bò AFS đạt năng suất từ 2400 – 3500 kg nuôi trong điều kiện gặm cỏ ở Queensland. Cao nhất 5500 kg/chu kì.
  • Giống bò Kamaduk ở Ấn Độ có 1/4 máu Brown swiss. 1/4 máu Friesian; 1/4 Jersey và 1/4 máu bò địa phương
  • ở Sri Lanca, dùng đực HF và Jersey lai với cái địa phương đã được sind hoá và Sahiwal hoá nhưng chưa xác định được mức độ lai máu thích hợp, năng suất sữa của đàn F2 (3/4HF) thấp hơn so với F1.
  • ở Jamaica sử dụng bò đực Sahiwal phối với bò cái châu Âu (Jersey, Friesian) và đến năm 1952 cho ra giống Jamaica Hope có 75% máu Jersey; 20% máu Sahiwal và 5% Friesian, năng suất khoảng 2700 kg/chu kì.
  • Bò đực HF phối giống cho đàn cái nền bò lai Sind tạo ra con lai đời 1 có 1/2 máu bò HF, gọi là F1 HF. Điểm nổi bật của con lai F1 HF này là năng suất sữa có thể đạt 2500– 3000 kg/chu kì 300 ngày, sinh sản tốt, thích nghi rộng với nhiều vùng khí hậu nóng ẩm, dễ nuôi. Tiếp tục sử dụng tinh đực Hà Lan để phối cho cái F1 HF tạo ra con lai có 3/4 máu bò HF gọi là bò lai F2 HF. Từ đó đàn cái lai 3 máu sản xuất sữa (bò Vàng Việt nam, bò Red Sindhi và bò Holstein Friesian). Con lai F1 và F2 HF được nuôi rộng rãi ở những vùng nóng ở Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện giải pháp tăng đầu con, trong đó là sẽ tăng đàn tự nhiên từ đàn bò lai sữa hiện có; tăng đàn bò lai sữa từ lai tạo bò HF với bò nền lai Sind, Tăng đàn bò sữa từ nhập bò HF thuần và bò lai sữa[5].

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Bò Hà Lan http://www.holsteinusa.com/ http://www.ontarioplaques.com/Plaques_STU/Plaque_S... http://www.whff.info/ http://dantri.com.vn/kinh-doanh/nong-dan-viet-nam-... http://elib.dostquangtri.gov.vn/ntmn/Include/Index... http://www.travinh.gov.vn/wps/portal/tamnong/!ut/p... http://vcn.vnn.vn/phat-trien-giong-bo-sua-o-viet-n... http://www.vcn.vnn.vn/PrintPreview.aspx?ID=1607 http://www.vcn.vnn.vn/PrintPreview.aspx?ID=3627 http://vtc.vn/bo-vui-nong-dan-hanh-phuc-triet-ly-n...